Tre Việt Nam

1. Vị trí, giá trị của Tre trong nền kinh tế quốc dân

ở Việt Nam, Tre đựơc sử dụng rộng rãi trong xây dựng, đặc biệt là ở các vùng nông thôn; từ việc sử dụng làm cọc móng, giàn dáo, các kết cấu cần chịu lực đến sàn, trần, mái nhà, vách ngăn, khung nhà để xuất khẩu. . . ước tính số lượng Tre được sử dụng trong xây dựng chiếm tới 50% sản lượng khai thác hàng năm. Trong giao thông Tre được sử dụng làm thuyền, phao và cầu; trong khai thác mỏ Tre được sử dụng để chèn hầm lò; trong nông nghiệp Tre được sử dụng làm nông cụ . . .Rất nhiều đồ dùng thông thường trong mỗi gia đình người Việt Nam như giường, chiếu, bàn, ghế, mành, thúng, mủng, rổ, rá, đến đũa ăn, tăm sỉa răng đều cần đến Tre. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, nhạc cụ. . . từ Tre ngày càng nhiều và đã trở thành nhu cầu lớn ở trong nước và quốc tế. Tre dùng vào những việc này tuy không được thống kê cụ thể, nhưng ước tính cũng chiếm khoảng 25-30% sản lượng khai thác hàng năm. Trong công nghiệp Tre được sử dụng làm nguyên liệu dưới dạng thanh, dăm hoặc sợi, bột. Ván ép làm từ tấm cót đan, dăm hoặc thanh Tre được nhúng tẩm keo rồi dán ép với áp suất và nhiệt độ cần thiết để ván có kết cấu bền vững, đủ đáp ứng yêu cầu sử dụng như làm trần nhà, vách ngăn, sàn nhà, ốp tường, mái che. . .. Sợi Tre do có những ưu điểm về độ dài và độ mềm dẻo hơn nhiều so với sợi gỗ nên rất thích hợp để làm nguyên liệu sản xuất bột giấy nhất là giấy có yêu cầu chất lượng cao. Trong 5 năm (1986-1990) sản xuất bột giấy từ Tre đã tiêu thụ 540.439 tấn (Nhà xuất bản thống kê, 1991). Trong tương lai bột giấy từ nguyên liệu Tre cũng là mặt hàng hấp dẫn có khả năng tiêu thụ rất lớn trên thị trường quốc tế. Đặc biệt, măng của nhiều loài Tre là rau sạch, ăn ngon, bổ, và còn có tác dụng chữa bệnh. Hiện nay có nhiều công ty chuyên doanh măng và nhiều xí nghiệp chế biến măng tươi và măng khô đươc thành lập. Lá Tre, tinh Tre… . cũng là nguồn thuốc tại chỗ của gia đình. Tre còn dùng sản xuất thuốc trừ sâu, than hoạt tính . . .

“Luỹ Tre làng” là một đặc điểm độc đáo của vùng nông thôn Việt Nam, không chỉ là rào luỹ bảo vệ dân làng và hoa mầu, che gió bão, ngăn dòng chẩy, chống xói mòn đất, chắn sóng bảo vệ đê. . . mà còn giữ cho bầu không khí trong lành và tô điểm cho làng quê một sắc thái thiên nhiên rất riêng biệt của Việt Nam.

Tre không chỉ có giá trị lớn về kinh tế và sinh thái môi trường mà còn ăn sâu vào đời sống tâm hồn, văn hoá, nghệ thuật và truyền thuyết lịch sử giữ nước của các dân tộc Việt Nam.

Vì vậy trong chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, nhóm Tre có vị trí được quan tâm. Kết quả hội thảo “Xác định loài cây trồng rừng và chọn loài ưu tiên” tại các vùng lâm nghiệp cũng đã chọn “Tre” là loài cây trồng ở tất cả các vùng.

 

2. Hình thành rừng Tre

* Rừng Tre tự nhiên:Trong các công trình nghiên cứu phân loại rừng Việt Nam, các tác giả đều khẳng định rằng rừng Tre hình thành trong quá trình diễn thế “là các kiểu phụ rừng thứ sinh hình thành trên đất rừng tự nhiên sau khai thác hoặc sau nương rãy có đủ ánh sáng và đất rừng còn tốt”, có thể là rừng hỗn giao gỗ – Tre hoặc rừng thuần loại Tre.

* Rừng Tre trồng:Tuỳ mục đích kinh doanh Tre được trồng phân tán từng khóm (vườn nhà), từng hàng (ven đê, ven đồi. . .), tập trung thành rừng thuần loại hoặc trồng xen cây gỗ.